Việt Nam, với vị trí địa lý tại Đông Nam Á và là thành viên tích cực của ASEAN, từ lâu đã là đối tượng của một cuộc tranh luận học thuật sâu sắc về bản chất văn hóa của mình: liệu Việt Nam thuộc thế giới văn hóa Đông Nam Á hay mang những thuộc tính mạnh mẽ của Đông Á? Đây là vấn đề được đặt ra khá sớm và cho đến nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng, phản ánh sự phức tạp trong quá trình hình thành và phát triển của một quốc gia có lịch sử giao thoa văn hóa đặc biệt. Khi xem xét các quốc gia Đông Á, Việt Nam thường được nhắc đến như một trường hợp điển hình về sự pha trộn và dung hợp văn hóa.
1. Cuộc Tranh Luận Chưa Ngã Ngũ Về Vị Thế Của Việt Nam
Những khái niệm “Đông Nam Á” và “Đông Á” mới ra đời trong và sau Chiến tranh thế giới thứ II. Nếu xét thuần túy về mặt địa lý, ranh giới các khu vực đã được xác định rõ ràng, và Việt Nam thuộc khu vực Đông Nam Á, trong khi Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên thuộc Đông Á. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi mà các học giả quan tâm lại là không gian văn hóa, hay khu vực địa – văn hóa, địa – lịch sử – văn hóa. Trên phương diện này, vị trí địa lý tuy quan trọng nhưng mối quan hệ lịch sử và tính tương đồng văn hóa mới là cơ sở chủ yếu. Phạm vi khu vực văn hóa có thể có những chuyển dịch trong tiến trình lịch sử và không hoàn toàn bị ràng buộc bởi ranh giới quốc gia hiện đại.
Từ năm 1948, G.Coedes đã nghiên cứu quá trình Ấn Độ hóa các quốc gia vùng Đông Nam Á, chỉ ra rằng Phù Nam, Lâm Ấp (Trung và Nam Việt Nam) là những quốc gia Ấn Độ hóa sớm nhất, trong khi An Nam (Bắc Việt Nam) lại bị Hán hóa. Điều này phân biệt hai khu vực Ấn Độ hóa và Hán hóa trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay, diễn ra trên nền tảng văn hóa bản địa Nam Á (Austro-asiatique).
L. Vandermeerch nhìn nhận “thế giới Hán hóa” như một tập hợp những nước chịu ảnh hưởng của trung tâm văn minh Trung Hoa. Theo ông, “thế giới Hán hóa” hiện nay bao gồm 8 nước và vùng lãnh thổ: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Bắc Triều Tiên, Nam Hàn, Nhật Bản, Việt Nam, Singapore. Như vậy, Việt Nam và Singapore, dù thuộc vùng địa lý Đông Nam Á, lại được xếp vào “thế giới Hán hóa”, mà ông gọi là “thế giới Hán hóa mới” trong bối cảnh lịch sử hiện đại, cùng với các quốc gia Đông Á khác.
Alexandre Woodside cũng dựa trên mô hình Trung Hoa và khu vực ảnh hưởng của văn minh này, coi Việt Nam là một quốc gia Đông Á. Tương tự, Vĩnh Sính xếp Việt Nam và Nhật Bản trong “thế giới Đông Á”, nhấn mạnh mối giao lưu và tương đồng văn hóa giữa các khu vực này.
Furuta Motoo đưa ra nhiều khái niệm để phân tích mối quan hệ giữa Việt Nam với thế giới, từ “thế giới Đông Á” đến “thế giới văn minh Trung Hoa”. Ông phân chia tiến trình lịch sử Việt Nam thành nhiều giai đoạn: từ một “nhà nước kiểu Đông Nam Á”, trở thành thành viên của “thế giới Đông Á” từ thế kỷ X đến XIX, rồi tách dần khỏi “thế giới văn minh Trung Hoa” trong thời Pháp thuộc để xác định vị trí “quốc gia khu vực” Đông Nam Á khi giành lại độc lập, sau đó trở thành một “quốc gia phổ biến” khi gia nhập hệ thống xã hội chủ nghĩa và từ 1995, gia nhập ASEAN để tự định vị là một “quốc gia khu vực Đông Nam Á”. Cách tiếp cận này cho thấy Việt Nam đã trải qua nhiều sự định vị khác nhau trong bối cảnh các nước Đông Á và Đông Nam Á.
Trong những thập kỷ gần đây, các học giả Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, quan tâm đến ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc, Ấn Độ và phương Tây, cũng như mối quan hệ giữa cơ sở bản địa với yếu tố ngoại sinh, giữa Việt Nam với Đông Nam Á và Đông Á. Nhìn chung có hai xu hướng chính: một xu hướng cho rằng văn hóa Việt Nam đã chuyển vùng từ Đông Nam Á sang Đông Á, và một xu hướng khác coi văn hóa Việt Nam mang cơ tầng văn hóa Nam Á gắn bó với thế giới Đông Nam Á, rồi bồi đắp dung hợp những tầng văn hóa Đông Á cùng những ảnh hưởng văn hóa phương Tây. Các nghiên cứu này liên quan đến những tranh luận về “Ấn Độ hóa”, “Hán hóa”, về Nho giáo, Phật giáo, về bản sắc văn hóa dân tộc và quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong phát triển văn hóa.
2. Nền Tảng Văn Hóa Đông Nam Á và Sự Ảnh Hưởng Đông Á của Việt Nam
Xét về mặt địa lý, Việt Nam là một nước Đông Nam Á và từ năm 1995 là thành viên của ASEAN. Ngược về quá khứ xa xưa, thời tiền sử và sơ sử, Việt Nam nằm trong khu vực địa – văn hóa có cơ tầng văn hóa chung bao quát cả vùng Đông Nam Á hiện nay và vùng nam Trường Giang (nam Trung Quốc), lúc đó còn là địa bàn sinh tụ của Bách Việt, cư dân phi Hán tộc. Những kết quả nghiên cứu về khảo cổ học, cổ sử, dân tộc học, văn hóa đã chứng minh điều đó. Đây là vùng nông nghiệp trồng lúa nước với kết cấu xóm làng mang đậm tính cộng đồng, với tín ngưỡng vật linh, thờ cúng đa thần, nữ thần, với những nghi lễ phồn thực, những lễ hội nông nghiệp theo mùa, nhiều phong tục tập quán chung như ở nhà sàn, ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình… Nhiều nhà khoa học gọi đó là “văn hóa Nam Á” (Austro-asiatie Culture).
Khu vực này phát triển giữa hai nền văn minh lớn của phương Đông và thế giới là văn minh Trung Quốc ở phía bắc và văn minh Ấn Độ ở phía tây, nên dĩ nhiên cũng sớm tiếp nhận những ảnh hưởng từ các trung tâm văn minh này. Chính từ đây diễn ra sự phân hóa của các nước Đông Nam Á. Vùng nam Trường Giang từ đời Tần sáp nhập dần vào lãnh thổ Trung Quốc với sự gia tăng của quá trình Hán hóa. Các nước khác bị thu hút vào vùng ảnh hưởng của cả hai nền văn minh này: Phù Nam, Champa thuộc vùng ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, trong lúc miền Bắc Việt Nam từ văn hóa Đông Sơn đã thấy rõ quan hệ giao lưu với văn hóa Trung Quốc, và tiếp sau là nước Âu Lạc bị đặt dưới hơn nghìn năm Bắc thuộc, văn hóa Trung Quốc du nhập vừa bằng con đường cưỡng chế của chính quyền đô hộ, vừa bằng sự giao lưu và tiếp nhận tự nguyện của nhân dân.
Có người cho rằng văn hóa Việt Nam (trên địa bàn Âu Lạc – Giao Châu – An Nam) trong thời Bắc thuộc là nền văn hóa Hán Việt, ý muốn nhấn mạnh tính Hán hóa và vai trò chi phối của văn hóa Hán. Tuy nhiên, Giáo sư Phan Huy Lê không hoàn toàn tán đồng quan điểm đó, mà cho rằng vừa có lớp văn hóa Hán – Việt của tầng lớp thống trị Hán và quý tộc Việt, vừa có lớp văn hóa Việt – Hán giữ vai trò nền tảng của nhân dân Việt dựa trên cơ sở xóm làng với tính tự trị và sức đề kháng cao. Điều đó cũng có nghĩa là cơ tầng văn hóa Việt gắn bó với văn hóa Đông Nam Á vẫn được bảo tồn và phát triển. Vì vậy quá trình Hán hóa ở đây không dẫn đến sự đồng hóa. Đồng thời văn hóa Âu Lạc, Champa, Phù Nam vẫn duy trì và phát triển quan hệ giao lưu và tác động qua lại, cho thấy sự đa dạng và khả năng dung hợp mạnh mẽ.
Tóm lại, bản sắc văn hóa Việt Nam là một bức tranh đa sắc, nơi nền tảng văn hóa bản địa Đông Nam Á được bồi đắp và làm phong phú bởi những ảnh hưởng sâu sắc từ văn minh Đông Á, đặc biệt là văn minh Trung Hoa. Cuộc tranh luận về việc Việt Nam thuộc Đông Nam Á hay Đông Á không chỉ đơn thuần là phân định địa lý mà còn là tìm hiểu quá trình đan xen, chuyển hóa và dung hợp văn hóa kéo dài hàng thiên niên kỷ. Dù Việt Nam chia sẻ nhiều đặc điểm với các nước Đông Á trong khía cạnh Hán hóa, đất nước này vẫn giữ vững và phát huy những giá trị cốt lõi, gắn bó với khu vực Đông Nam Á, tạo nên một bản sắc văn hóa độc đáo và riêng biệt.
Tài liệu tham khảo
- G.Coedes. Les Etats Hindouisés d’ Indonésie, E. De Boccard Editeur, Paris 1948.
- Léon Vandermeerch, Le nouveau monde sinisé, Paris 1986. Bản dịch tiếng Việt: Thế giới Hán hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1992.
- Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese model, Cambridge 1971.
- Vĩnh Sính, Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á, thành phố Hồ Chí Minh 1993.
- Furuta Moto, Việt Nam trong lịch sử thế giới, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1988; Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á thế kỷ XX, trong Việt Nam trong thế kỷ XX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 194-204.
- Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống, Hà Nội 1994.
- Nguyễn Thừa Hỷ, Lịch sử văn hoá Việt Nam truyền thống giản yếu, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.